Bất Bình Đẳng Thu Nhập

Bất Bình Đẳng Thu Nhập

Thực tế cho thấy, có một khoảng cách rất xa giữa thu nhập của người nổi tiếng và NLĐ ở Trung Quốc. Ngay cả nghệ sĩ được coi là kém sắc và vô danh xuất hiện trong một sự kiện biểu diễn hay quảng cáo cũng kiếm được hàng chục nghìn nhân dân tệ. Thế nhưng, nhân viên văn phòng ở các tỉnh, thành phố lớn chỉ có thể có mức thu nhập từ 7.000- 10.000 nhân dân tệ/tháng, tương đương 1.037- 1482 USD; còn ở vùng sâu, vùng xa, mức lương trung bình không quá 3.000 nhân dân tệ (44 USD)/tháng.

Thực tế cho thấy, có một khoảng cách rất xa giữa thu nhập của người nổi tiếng và NLĐ ở Trung Quốc. Ngay cả nghệ sĩ được coi là kém sắc và vô danh xuất hiện trong một sự kiện biểu diễn hay quảng cáo cũng kiếm được hàng chục nghìn nhân dân tệ. Thế nhưng, nhân viên văn phòng ở các tỉnh, thành phố lớn chỉ có thể có mức thu nhập từ 7.000- 10.000 nhân dân tệ/tháng, tương đương 1.037- 1482 USD; còn ở vùng sâu, vùng xa, mức lương trung bình không quá 3.000 nhân dân tệ (44 USD)/tháng.

Hoàn thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công thì người lao động cần chuẩn bị hồ sơ thế nào?

Theo khoản 1 Điều 42 Thông tư 80/2021/TT-BTC quy định:

Theo đó trường hợp việc hoàn thuế thu nhập cá nhân được thực hiện thông qua tổ chức, cá nhân trả tiền lương, tiền công thì người lao động cần chuẩn bị hồ sơ sau:

- Văn bản đề nghị xử lý số tiền thuế nộp thừa;

- Văn bản ủy quyền trong trường hợp người nộp thuế không trực tiếp thực hiện thủ tục hoàn thuế, trừ trường hợp đại lý thuế nộp hồ sơ hoàn thuế theo hợp đồng đã ký giữa đại lý thuế và người nộp thuế.

Trường hợp người lao động có thu nhập từ tiền lương, tiền công trực tiếp quyết toán với cơ quan thuế thì việc hoàn thuế thu nhập cá nhân không cần phải chuẩn bị hồ sơ hoàn thuế.

Mẫu đơn đề nghị hoàn thuế thu nhập cá nhân cho người lao động là mẫu nào?

Đới với trường hợp tổ chức, cá nhân trả thu nhập từ tiền lương, tiền công thực hiện quyết toán cho người lao động có uỷ quyền thì cần chuẩn bị mẫu đơn đề nghị hoàn thuế thu nhập cá nhân tại mẫu số 01/DNXLNT Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư 80/2021/TT-BTC như sau:

Mẫu đơn đề nghị hoàn thuế thu nhập cá nhân năm 2024 đầy đủ nhất cho người lao động: Tại đây.

Thị trường lao động tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tiếp tục có những chuyển biến tích cực và nhu cầu tuyển dụng tăng cao từ nay đến ...

Các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo, và gần đây là TikTok, đang trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho các chiêu trò lừa đảo tuyển dụng. Đặc biệt, ...

Hiện tượng giới trẻ liên tục “nhảy việc” ngày càng trở nên phổ biến, trở thành một xu hướng không thể phủ nhận trong môi trường lao động hiện đại. ...

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bẫy thu nhập trung bình là một tình trạng trong phát triển kinh tế khi mà một quốc gia đạt đến một mức thu nhập bình quân nhất định (do những lợi thế sẵn có) và giậm chân tại mức thu nhập ấy[1] mà không thể vượt qua ngưỡng đó để trở nên giàu có hơn.[2]

Khi mức lương của người lao động ở các nước đang phát triển tăng lên, các nhà sản xuất thường cho rằng họ không thể cạnh tranh với những nhà sản xuất có giá thành sản phẩm thấp hơn trong thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, họ cũng nhận thấy rằng bản thân mình không có công nghệ tốt nhất như ở các nước đã phát triển. Đó chính là bẫy thu nhập trung bình. Một ví dụ là hai nước Nam Phi và Brasil đã phát triển ở tốc độ thấp trong vài thập kỉ khi mà thu nhập bình quân đầu người của họ rơi vào khoảng "thu nhập trung bình" như cách gọi của Ngân hàng Thế giới (khoảng 1.000 USD đến 12.000 USD tính theo giá trị năm 2010)[1].

Tiêu biểu, các nước bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình có:

Một biểu đồ kèm báo cáo về Trung Quốc năm 2030 của Ngân hàng Thế giới cho thấy, đa số các quốc gia đạt mức thu nhập trung bình vào năm 1960 vẫn chỉ có thu nhập trung bình vào năm 2008, và chỉ có 13 quốc gia trong thống kê là thoát được bẫy thu nhập trung bình và trở thành quốc gia có thu nhập cao.[4] Tại châu Á, tính đến năm 2013, chỉ có 4 nước và vùng lãnh thổ có dân số trên 5 triệu người thoát được bẫy, đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. [5] Nhiều nước Mỹ Latinh cũng mắc bẫy thu nhập trung bình.[6]

Bẫy thu nhập trung bình xảy đến khi một quốc gia phát triển chững lại hay thậm chí là trì trệ sau khi đạt được một mức thu nhập trung bình. Vấn đề này thường nảy sinh với các nền kinh tế đang phát triển khi mức lương tăng lên trong khi tính cạnh tranh về giá cả hàng hóa giảm xuống, khó có thể cạnh tranh với các nền kinh tế đã phát triển về công nghệ tối tân, hay với các nền kinh tế có mức lương thấp hơn trong việc sản xuất hàng hóa giá rẻ[7].

Để tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình đòi hỏi phải có những chiến lược để đưa vào những phương thức sản xuất mới và tìm kiếm các thị trường mới để duy trì xuất khẩu nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Bên cạnh đó việc khuyến khích tiêu dùng trong nước cũng rất quan trọng. Tầng lớp trung lưu đang mở rộng có thể dùng sức mua của mình để mua sản phẩm chất lượng cao và giúp thúc đẩy tăng trưởng[8].

Khó khăn lớn nhất là việc chuyển từ tăng trưởng dựa trên tài nguyên (phụ thuộc vào nguồn lao động giá rẻ và vốn tư bản) sang sự tăng trưởng dựa vào sự đổi mới kỹ thuật sản xuất để không ngừng nâng cao năng suất và tạo ra sản phẩm mới mang tính cạnh tranh. Để làm điều này cần phải đầu tư vào nền giáo dục và phát triển khoa học công nghệ đồng thời khuyến khích việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nền kinh tế. Hàn Quốc là một minh chứng. Quốc gia này đã phát triển một hệ thống giáo dục chất lượng cao đồng thời nhà nước khuyến khích sự sáng tạo và hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, phát triển trong khoa học và kỹ thuật.[7]

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thu nhập bình quân đầu người của một nhóm người có thể nghĩa là tổng thu nhập cá nhân chia tổng dân số. Thường tính thu nhập trên đầu người dùng đơn vị tiền tệ hàng năm.

Tại kỳ họp 6, Quốc hội khóa XIV, cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị về thuế giá trị gia tăng (GTGT). Theo đó, các hoạt động mua bán của doanh nghiệp chế xuất có thuế suất bằng 0%, thực chất đây là điều khoản ưu đãi của chính sách thuế; trong khi các doanh nghiệp không đăng ký loại hình doanh nghiệp chế xuất thì phải chịu thuế suất thuế GTGT 5% hoặc 10% tùy theo loại hàng hóa dịch vụ, tạo nên sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp; gây thất thu ngân sách.

Trả lời kiến nghị của cử tri, Bộ Tài chính cho biết:

Thuế GTGT là thuế gián thu, tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng ở Việt Nam. Do vậy, hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu được áp dụng mức thuế suất 0% và thuế GTGT đầu vào phục vụ cho hoạt động xuất khẩu thì được hoàn.

Đối với doanh nghiệp chế xuất (là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu chế xuất hoặc doanh nghiệp xuất khẩu toàn bộ sản phẩm hoạt động trong khu công nghiệp, khu kinh tế) là doanh nghiệp xuất khẩu 100% nên để thu hút đầu tư, Luật thuế GTGT và Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có những quy định như sau:

Tại khoản 20 Điều 5 Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 có quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT như sau:

“20. Hàng hóa chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam; hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu; hàng tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu; nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng hóa xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, gia công xuất khẩu ký kết với bên nước ngoài; hàng hóa, dịch vụ được mua bán giữa nước ngoài với các khu phi thuế quan và giữa các khu phi thuế quan với nhau.”

Tại khoản 1 Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 có quy định như sau:

“1. Khu phi thuế quan là khu vực kinh tế nằm trong lãnh thổ Việt Nam, được thành lập theo quy định của pháp luật, có ranh giới địa lý xác định, ngăn cách với khu vực bên ngoài bằng hàng rào cứng, bảo đảm điều kiện cho hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan của cơ quan hải quan và các cơ quan có liên quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và phương tiện, hành khách xuất cảnh, nhập cảnh; quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa khu phi thuế quan với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu.”

Tại khoản 1 Điều 8 Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 (đã được sửa đổi, bổ sung lần 1 tại khoản 3 Điều 1 Luật số 31/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, và sửa đổi, bổ sung lần 2 tại khoản 2 Điều 1 của Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế) có quy định về mức thuế suất 0% như sau:

“1. Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng quy định tại Điều 5 của Luật này khi xuất khẩu, trừ các trường hợp sau đây:

a) Chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài;

b) Dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài;

đ) Dịch vụ tài chính phái sinh;

e) Dịch vụ bưu chính, viễn thông;

g) Sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm khác quy định tại khoản 23 Điều 5 của Luật này.

Hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu là hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng ở ngoài Việt Nam, trong khu phi thuế quan; hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng nước ngoài theo quy định của Chính phủ.”

Tại khoản 3 Điều 1 Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, Luật thuế TTĐB và Luật quản lý thuế có quy định về hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu như sau:

“2. Cơ sở kinh doanh trong tháng, quý có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ ba trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng theo tháng, quý, trừ trường hợp hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu, hàng hóa xuất khẩu không thực hiện việc xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật hải quan. Thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối với người nộp thuế sản xuất hàng hóa xuất khẩu không vi phạm pháp luật về thuế, hải quan trong thời gian hai năm liên tục; người nộp thuế không thuộc đối tượng rủi ro cao theo quy định của Luật quản lý thuế.”.

Do vậy, hàng hóa, dịch vụ mua bán giữa doanh nghiệp chế xuất và nước ngoài hoặc giữa doanh nghiệp chế xuất với khu phi thuế quan thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Hàng hóa do doanh nghiệp trong nước bán cho doanh nghiệp chế xuất được áp dụng thuế suất 0%, dịch vụ do doanh nghiệp trong nước cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất và sử dụng trong doanh nghiệp chế xuất được áp dụng thuế suất 0%, trừ một số trường hợp không được áp dụng thuế suất 0% theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật thuế GTGT.

Doanh nghiệp chế xuất, khu phi thuế quan phải đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13.

Đối với doanh nghiệp trong nước: Trường hợp doanh nghiệp trong nước có hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ thì được áp dụng thuế suất 0% trừ một số trường hợp không được áp dụng thuế suất 0% theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật thuế GTGT. Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu được hoàn thuế GTGT (theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật số 106/2016/QH13).

Như vậy chính sách thuế không có sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp.